I.
GIỚI THIỆU VỀ BỆNH UỐN
VÁN:
1. Giới thiệu chung:
- Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng cấp
tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván (Clostridium tetani) gây ra. Trực
khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng
ngoại độc tố vào máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh - cơ, làm cho
bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật.
Người bị bệnh uôn
ván
2.
Lịch sử nghiên cứu
bệnh uốn ván:
-
Năm 1884 Nicolaier tìm
thấy trực khuẩn uốn ván gây bệnh.
-
Năm 1889 Kitasato nuôi
cấy được trực khuẩn uốn ván trong môi trường kỵ khí.
-
Năm 1890 Faber đã tìm
thấy ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván và vai trò gây bệnh của nó.
-
Sau đó, Von Behring và
Kitasato dùng huyết thanh kháng độc tố uốn ván để điều trị bệnh uốn ván.
-
Năm 1925 Ramon chế tạo
được giải độc tố uốn ván làm vaccine
phòng bệnh.
3.
Vi khuẩn uốn ván Clostridium
tetani:
a.
Đặc điểm sinh học:
❖ Hình thái:
-
Trực khuẩn thẳng và
mảnh, hơi cong, dài từ 3-4 pm, rộng khoảng 0,4pm, không có vỏ, bắt màu Gram dương. khi
mới nuôi cấy trên môi trường đặc thì vi khuẩn dài như sợi chỉ bắt màu gram, nếu nuôi
cấy lâu vi khuẩn dễ dàng mất màu gram. Vi khuẩn có lông và di động mạnh trong
môi trường kỵ khí. Khi gặp điều kiện sống không thuận lợi vi khuẩn này sinh nha
bào ở trong thân và nằm ở một đầu làm cho vi khuẩn có dạng hình đinh ghim thấy
dễ trên tiêu bản nhuộm gram, nhiệt độ thích hợp để tạo nha bào 37oC, ở nhiệt
độ 24oC hình thành nha bào 4-10 ngày, trên 42oC thì không
tạo nha bào.
-
Trực khuẩn uốn ván kỵ khí tuyệt đối, phát triển
tốt trên môi trường thông thường, bởi vì trực khuẩn uốn ván không cần nguồn
dinh dưỡng lớn do chuyển hóa đơn giản, ở nhiệt độ 35°C và pH =
7,3 và kỵ khí tuyệt đối là điều kiện thuận lợi nhất cho trực khuẩn uốn ván phát
triển.
-
Các môi trường kỵ khí dùng cấy vi khuẩn uốn ván
như môi trường Brewer có chứa các hóa chất khử oxy hòa tan như
natrithioglycolate, gluthation, hoặc môi trường canh thang thịt băm hay gan cục.
Trong các môi trường này vi khuẩn phát triển làm đục đều môi trường và có cặn lắng.
-
Môi trường đặc như thạch Veillon và thạch VF, vi khuẩn uốn ván phát triển tạo khuẩn lạc vẩn như bông màu trắng
đục, vi khuẩn sinh nhiều hơi làm nứt thạch.
♦♦♦ Đặc điểm
hóa sinh:
-
Trực khuẩn uốn ván làm lỏng gelatin chậm, không làm đông sữa, không phân giải protein, sinh indol, lên men yếu các loại đường:
arabinose, galactose, lactose và sucrose. Trong môi trường canh thang glucose, trực khuẩn uốn ván sinh ra axeton. Nó không chuyển hóa nitrat thành nitrit, nhưng có khả năng gây nên tan máu.
♦♦♦ Khả năng
đề kháng:
-
Nha bào có thể tồn tại trong rất nhiều năm ở môi
trường bên ngoài.
-
Vi khuẩn ở trạng thái dinh dưỡng dễ bị giết chết
bởi đun 56oC trong 30 phút, nhưng ở trạng thái nha bào vi khuẩn trở
nên rất đề kháng, để giết chết nha bào phải hấp trong nồi áp suất ở 120oC
trong 30 phút hoặc ngâm trong dung dịch phenol 5%
trong 8-10 giờ đặc điểm này cần lưu ý khi tiệt trùng dụng cụ y tế.
♦♦♦ Độc tố:
-
Độc tố của trực khuẩn uốn ván là một ngoại độc tố,
bản chất là protein, có trọng lượng phân tử vào khoảng
150K Dalton, bao gồm một số lượng lớn acid amin. Độc tố uốn ván không có ích cho vi khuẩn, nó không phá hủy bất cứ cấu trúc
tổ chức nào để giúp vi khuẩn xâm nhập vào mô của động vật. Độc tố uốn ván có
hai loại: độc tố của những trực khuẩn uốn ván không bắt màu Gram và độc tố của trực khuẩn uốn ván bắt màu Gram có độc tính rất
cao. Độc tố này gồm hai phần:
+ Tetanolysin: tác dụng làm tan hồng cầu của thỏ, người và ngựa, gây
hoại tử ít. Độc tố này có vai trò rất phụ trong gây bệnh.
+
Tetanospasmin: là độc tố thần kinh. Phần độc tố này gây nên những triệu chứng đặc
hiệu của bệnh uốn ván. Đây là một độc tố không chịu nhiệt, bị bất
hoạt ở nhiệt độ 65°C sau 5 phút và bị tiêu huỷ nhanh chóng bởi men proteinase, đặc biệt là dịch tiêu hóa. Đây là
loại độc tố có tính kháng nguyên mạnh, vì vậy có thể dùng để sản xuất vaccine phòng bệnh.
-
Dựa vào kháng nguyên lông vi khuẩn uốn ván có
khoảng 10 type, tất cả 10 type này đều tạo ra ngoại độc tố mạnh. Khi xử lý độc tố uốn ván bằng
formarlin hoặc nhiệt độ thì làm mất độc tính
nhưng còn duy trì tính chất kháng nguyên,
chế phẩm này gọi là giải độc tố dùng làm vaccine.
a.
Khả năng gây bệnh:
♦♦♦ Dịch tễ học:
-
Vi khuẩn uốn ván tìm
thấy nhiều trong lớp đất bề mặt, vi khuẩn sống hoại sinh ở đường tiêu hóa người
và động vật do vậy ở vùng đông dân cư, nhiệt độ nóng ẩm đất có nhiều phân súc
vật và giàu chất hữu cơ càng có nhiều vi khuẩn uốn ván.
-
Vi khuẩn hoặc bào tử
xâm nhập vào cơ thể qua các vết thương do hỏa khí, do tai nạn lao động có dây
nhiều chất bẩn và dị vật tạo điều kiện dễ dàng cho vi khuẩn uốn ván phát triển
và gây bệnh.
-
Uốn ván xảy ra trong
môi trường bệnh viện liên quan đến phẫu thuật bởi các dụng cụ hoặc thao tác
không đảm bảo vô trùng, uốn ván có thể gặp khi tiêm bắp thịt không đảm bảo vô
trùng các loại thuốc như quinin, hoặc heroin.
-
Uốn ván rốn ở trẻ sơ
sinh do cắt rốn bằng dụng cụ không vô trùng.
-
Bệnh xảy ra ở mọi lứa
tuổi và cả hai giới.
♦♦♦ Bệnh sinh:
-
Vi khuẩn hoặc bào tử
khi vào cơ thể gặp điều kiện thuận lợi như tổ chức bị hoại tử, dị vật, vết
thương sâu môi trường tại chỗ kỵ khí vi khuẩn phát triển và tạo độc tố. Vi
khuẩn không xâm nhập quá vị trí vết thương nhưng độc tố của chúng hấp thụ vào
máu qua đường bạch huyết hoặc theo dây thần kinh và khuếch tán qua tổ chức cơ
gần kề. Phân tử độc tố gắn vào receptor
ở đầu cùng của tế bào thần kinh, ngăn cản
phóng thích các chất dẫn truyền thần kinh (gamma-aminobutyric axit,
glycine) cho
các synapse ức chế, không có tác dụng ức chế, gây nên sự kích thích quá
mức của các cơ vân. Tác dụng này đưa đến sự co giật và co cứng cơ đặc thù của
bệnh uốn ván.
-
Thời gian ủ bệnh trung
bình 15 ngày, các triệu chứng như cứng hàm, khó nuốt, rồi dần dần cứng cơ cổ,
cơ lưng, cơ bụng rồi co cứng cơ toàn thân đưa đến tư thế ưởn cong người. Bệnh
nặng xuất hiện những cơn co giật cơ, co cứng cơ và co giật tăng cường khi có
kích thích như cấu véo, ánh sáng, âm thanh... Uốn ván rốn ở trẻ sơ sinh xảy ra
khoảng 10 ngày sau khi sinh, bệnh thường nặng và tử vong nhanh.
-
Triệu chứng bệnh uốn
ván tăng dần đến ngày thứ 9-10 sau đó giảm dần, hồi phục hoàn toàn mất 3-4
tuần.
b.
Điều trị, phòng bệnh:
Điều trị: Theo các nguyên tắc sau đây.
-
Trung hòa độc tố bằng
kháng độc tố uốn ván.
-
Dùng kháng sinh để
tiêu diệt vi khuẩn.
-
Xử lý vết thương.
-
Điều trị triệu chứng
và hỗ trợ.
Phòng
bệnh:
-
Vết thương phải xử lý
thích hợp
-
Vết thương nghi ngờ
nhiễm vi khuẩn uốn ván nên để hở, tiêm huyết thanh phòng uốn ván.
-
Tiệt trùng kỹ các dụng
cụ y tế như kim tiêm, bơm tiêm, dụng cụ phẫu thuật, cắt rốn phải đảm bảo vô
trùng để tránh uốn ván rốn.
-
Dùng huyết thanh giải
độc tố uốn ván.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét