-
Hình thái và
cấu trúc:
Virus viêm não Nhật Bản
có hình cầu đường kính khoảng 40-50nm, capsid đối xứng hình khối 20 mặt và chứa
duy nhất ARN một sợi dương. Envelop bản chất là lipoprotein
Virus VNNB
thuộc họ Flaviviridae. Virus có hình cầu đường kính từ 30 đến 35nm. Virus chứa
ARN một sợi, nucleocapsid đối xứng hình khối. Có một vỏ bọc bên ngoài
capsit.Virus bị mất hoạt lực ở 560C trong 30 phút. Virus bị phá hủy bời ether
và desoxycholat Natri. Virus có thể nhân lên trong phôi gà và trong các nuôi cấy
tế bào thận khỉ, thận lợn, thận cừu, thận chuột đất vàng (hamster). Có nhiều
loài động vật cảm thụ tốt đối với virus VNNB như chuột nhắt trắng mới đẻ và trưởng
thành, mèo, chó con, ngựa, lợn, dơi và nhiều loài chim.Virus VNNB có ngưng kết
hồng cầu tố, có thể gây ngưng kết hồng cầu ngỗng và hồng cầu gà con 01 ngày tuổi.
-
Triệu chứng của bệnh:
-
Thời
kỳ nung bệnh
-
Kéo dài
từ 5 đến 14 ngày , trung bình là 1 tuần 1.2.Thời kỳ khới phát
-
Bệnh
thường khởi phát rất đột ngột với sốt cao 39oC – 40oC hoặc hơn .
-
Bệnh
nhân đau đầu, đặc biệt là vùng trán, đau bụng, buồn nôn và nôn. Ngay trong 1 -2
ngày đầu của bệnh đã xuất hiện cứng gáy, tăng trương lực cơ, rối loạn sự vận
động nhãn cầu. Về tâm thần kinh có thể xuất hiện lú lẫn hoặc mất ý thức. Những
ngày đầu phản xạ gân xương tăng, xung huyết giãn mạch rõ. Ở một số trẻ nhỏ
tuổi, ngoài sốt cao có thể thấy đi lỏng, đau bụng, nôn.
-
Tóm lại
trong thời kỳ khởi phát đặc điểm nổi bật của bệnh là sốt cao đột ngột , hội
chứng màng não và rối loạn ý thức từ nhẹ đến nặng (li bì, kích thích, vật vã, u
ám, mất ý thức hoàn toàn)
-
Thời kỳ
khởi phát của bệnh tương ứng với lúc virus vượt qua hàng rào mạch máu – não vào
tổ chức não và gây tổn thương nên phù nề não.
-
Thời
kỳ toàn phát
-
Từ ngày
thứ 3 -4 đến ngày thứ 6 -7 của bệnh. Thời kỳ này tương ứng với thời kỳ virus
xâm nhập vào tế bào não tuỷ gây huỷ hoại các tế bào thần kinh
-
Bước
sang ngày thứ 3 -4 của bệnh các triệu chứng của thời kỳ khởi phát không giảm mà
lại tăng lên. Từ mê sảng, kích thích, u ám lúc đầu dần dần bệnh nhân di vào hôn
mê sâu dần. Các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật cũng tăng lên như vã
nhiều mồ hôi, da lúc đỏ, lúc tái, rối loạn nhịp thở và tăng tiết trong lòng khí
quản do vậy khi nghe phổi có thể thấy nhiều ran rít, ran ngáy và cả ran nổ.
Mạch thường nhanh và yếu.
-
Nổi bật
trong giai đoạn toàn phát là sự xuất hiện các triệu chứng tổn thương não nói
chung và tổn thương thần kinh khu trú. Bệnh nhân cuồng sảng, ảo giác, kích
động, tăng trương lực cơ kiểu ngoại tháp làm cho bệnh nhân nằm co quắp. Trong
trường hợp tổn thương hệ thống tháp nặng có thể thấy co giật cứng hoặc giật
rung các cơ mặt và cơ tứ chi hoặc liệt, liệt cứng. Ở một số bệnh nhân xuất hiện
trạng thái định hình, giữ nguyên tư thế. Do rối loạn chức năng vùng dưới đồi
làm cho mạch nhanh 120 -140 lần / phút , tăng áp lực động mạch và co mạch ngoại
vi. Các dây thần kinh sọ não cũng bị tổn thương, đặc biệt là các dây vận nhãn (
III, IV, VI ) và dây VII. Rối loạn trung khu hô hấp dẫn tới thở nhanh nông,
xuất tiết nhều ở khí phế quản và có thể thấy viêm phổi đốm hoặc viêm phổi thuỳ
.
-
Soi đáy
mắt trong giai đoạn cấp tính thường thấy xung huyết gai thị, đôi khi thấy cả
phù nề và xuất huyết. Bệnh nhân rối loạn nhận cảm mầu sắc và ánh sáng, thị
trường bị thu hẹp
-
Tóm lại
thời kỳ toàn phát diễn ra ngắn , bệnh nhân nhanh chóng rơi vào tình trạng hôn
mê sâu với rối loạn các chức năng sống . Do vậy bệnh nhân thường tử vong trong
vòng 7 ngày đầu . Những bệnh nhân vượt qua được thời kỳ này thì tiên lượng tốt
hơn.
-
Cách xâm nhập:
Chim là vật chủ quan trọng chứa virút viêm não Nhật Bản. Người
ta phân lập được virút viêm não Nhật Bản từ nội tạng của chim hoang dã (chim liếu
điếu, và một số loại chim khác), chim mang virút huyết kéo dài nhưng lại không
biểu hiện bệnh, và nguồn lây nhiễm cho các loài muỗi trong thiên nhiên. Loài
chim thiên di có thể lây truyền virút từ vùng này qua vùng khác.
Sau khi hút máu động vật có nhiễm vi
rút, muỗi tìm nơi trú ẩn tiêu máu. Vi rút nhân lên trong cơ thể muỗi trong vài
ngày(tối đa 14 ngày) thì đủ khả năng truyền bệnh, nếu muỗi đốt hút máu người.
Muỗi cái bị nhiễm virut Viêm não Nhật Bản có khả năng truyền bệnh suốt đời, và
có thể truyền virut sang thế hệ sau quatrứng. Virut thường phát triển nhanh
trong cơ thể muỗi ở 270C–300C. Nếu dưới 200C thì
sự phát triển của virut dừng lại. Đócũng là lý do tại sao bệnh thường xảy ra từ
tháng 4 đến tháng 9 và đỉnh cao là vào tháng 6, tháng 7.
Ngày nay
người ta đã phát hiện được virút viêm
não Nhật Bản ở 30 loài muỗi khác nhau thuộc 5 họ Culex, Anopheles,
Aedes, Mansoni va Amergeres, trong đó có 2 loại C. Tritae, C. vishnui và vật
chủ trung gian có khả năng truyền bệnh cao. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định muỗi
Culex Tritaeniorhynchus là vật chủ trung gian chính lan truyền virút viêm não
Nhật Bản tại Việt Nam. C. Tritae sinh sản tại mương máng, đồng ruộng ngập nước,
về đêm muỗi cái ưa hút máu động vật có xương sống như gia súc, chim và cả
người, sau đó bay tản phát đi xa. Muỗi hút máu động vật là heo, chim trong thời
kỳ nhiễm virút huyết, virút nhân lên trong muỗi với hiệu giá cao, sau đó có khả
năng truyền bệnh suốt đời và có thể truyền virút sang thế hệ sau qua trứng.
Virút viêm
não Nhật Bản được bảo tồn trong thiên nhiên do truyền sinh học từ động vật có
xương sống này sang động vật có xương sống khác qua trung gian của côn trùng
tiết túc hút máu là muỗi. Chim là vật chủ cơ bản của chu trình Chim - Muỗi
trong việc duy trì virút viêm não Nhật Bản trong tự nhiên, nhưng chưa có nghiên
cứu rõ về vai trò quan trọng của chim trong việc truyền virút viêm não Nhật Bản
qua muỗi đến người. Heo là vật chủ quan trọng nhất có khả năng làm lan rộng
virút viêm não Nhật Bản, và chu trình Heo - Muỗi tồn tại quanh năm. Người sống
gần chu trình sinh thái tự nhiên này, có thể mắc bệnh khi bị muỗi đốt. Người
được coi là vật chủ cuối cùng đối với virút viêm não Nhật Bản viêm não Nhật Bản
vì virút trong máu người tồn tạo trong thời gian ngắn với nồng độ thấp, nên
không thể lây bệnh từ người này sang người khác qua muỗi đốt.
Khí hậu
với những yếu tố nhiệt độ và mưa cũng có ảnh hưởng đến tình hình bệnh. Vào mùa
mưa, ruộng lúa đầy nước tạo điều kiện tốt cho muỗi sinh sản và phát triển mạnh
trong thiên nhiên, trùng hợp với thời điểm bệnh xảy ra nhiều. Vào mùa hè thời
tiết nóng, ở nhiệt độ từ 270C - 300C, virút thường phát triển tốt trong cơ thể
muỗi. Nếu dưới 200C thì sự phát triển của virút dừng lại. Đó là lý do tại sao
mô hình dịch tễ học lại khác nhau giữa hai miền Nam, Bắc Việt Nam. Tại Miền Bắc
bệnh giảm nhiều vào những tháng lạnh, tăng vào những tháng hè và đỉnh cao vào
tháng 5 - 6 - 7. Tại miền Nam, thời tiết nóng bệnh rải rác quanh năm. Tất cả
mọi lứa tuổi chưa có miễn dịch đều có thể mắc bệnh. Ở những vùng có bệnh viêm
não Nhật Bản lưu hành, trẻ em sớm tiếp xúc với tác nhân gây bệnh nên tỷ lệ mắc
bệnh ở trẻ cao thường từ 2 - 10 tuổi, phần đông ở thể không triệu chứng lâm
sàng, số lượng trẻ có kháng thể đặc hiệu tăng theo tuổi nên tỷ lệ mắc bệnh giảm
ở trẻ lớn và người lớn. Người nước ngoài không phân biệt tuổi tác nếu chưa có
miễn dịch đặc biệu đều có thể mắc bệnh khi đến vùng có viêm não Nhật Bản lưu
hành. Bệnh không liên quan tới giới tính tuy nhiên trong thực tế số bệnh liên
quan đến giới tính nam thường nhiều hơn giới tính nữ. Tuy chu trình sinh thái
của virút viêm não Nhật Bản trong thiên nhiên không thay đổi, nhưng tình hình
dịch tễ có biến đổi trước tác động của con người, như thay đổi lề lối canh tác
và chăn nuôi, đô thị hóa, điều kiện kinh tế xã hội được nâng cao, sử dụng thuốc
diệt trừ côn trùng trong canh nông, và cuối cùng là thuốc chủng ngừa VNNB đã
được sử dụng.